Khảo cổ học Người_Scythia

Các dấu tích khảo cổ học của người Scythia bao gồm các gò mộ kiểu kurgan (từ các mẫu đơn giản tới các "kurgan hoàng gia" phức tạp chứa "bộ ba Scythia" gồm vũ khí, yên cương ngựa, đồ mỹ nghệ về động vật hoang dã kiểu Scythia), vàng, lụa và vật bị giết để tế thần, tại một số nơi còn có cả dấu tích có lẽ của người bị giết để tế thần. Kỹ thuật ướp xácsương giá vĩnh cửu hỗ trợ tốt cho việc bảo tồn các dấu tích. Khảo cổ học Scythia cũng kiểm tra các dấu tích của các đô thị và pháo thành Scythia Bắc Hắc Hải.

Giám định niên đại bằng cacbon-14 cho các kurgan đã cho phép các nhà khảo cổ dò tìm dấu vết sự xuất hiện của họ trong khu vực Sayan-Altay vào khoảng năm 3000 TCN, và sự lan tỏa của họ về phía tây vào khoảng 900 TCN.

Các đồ vật mồ mả Scythia ngoạn mục từ Arzhan và một số nơi khác thuộc Cộng hòa Tuva (giáp Mông Cổ) được xác định có niên đại từ khoảng 900 TCN trở đi. Một ngôi mộ tìm thấy ở hạ lưu sông Volga cho niên đại tương tự, và một trong các ngôi mộ Steblev ở phía đông, phần kết thúc phía châu Âu của khu vực trước đây thuộc Scythia có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ 8 TCN[9]

Các nhà khảo cổ có thể phân biệt ba thời kỳ của các dấu tích khảo cổ Scythia cổ đại như sau:

  • Thời kỳ 1: Kỷ nguyên Tiền-Scythia và Scythia ban đầu: từ thế kỷ 9 TCN tới giữa thế kỷ 7 TCN
  • Thời kỳ 2: Kỷ nguyên Scythia sớm: từ giữa thế kỷ 7 TCN tới thế kỷ 6 TCN
  • Thời kỳ 3: Kỷ nguyên Scythia kinh điển: từ thế kỷ 5 TCN tới thế kỷ 4 TCN

Từ thế kỷ 8 TCN tới thế kỷ 2 TCN, khảo cổ học ghi nhận sự phân chia thành 2 khu vực định cư khác biệt: khu vực cổ hơn tại vùng Sayan-Altay ở Trung Á, và khu vực trẻ hơn tại vùng duyên hải miền bắc Hắc Hải ở Đông Âu[10].

Kurgan

Bài chi tiết: Kurgan

Các khu gò mộ lớn (một số cao trên 20 m) cung cấp các dấu tích có giá trị nhất về mặt khảo cổ và gắn liền với người Scythia. Chúng rải rác trên các thảo nguyên Ukraina và miền nam Nga, trải dài thành các chuỗi lớn trong nhiều kilômét dọc theo các dãy đồi gò và các đường phân nước. Từ chúng các nhà khảo cổ đã biết thêm nhiều về đời sống và nghệ thuật Scythia[11].

Các thuật ngữ Ukraina và Nga để chỉ những gò mộ như vậy, "kurhan/kurgan" (курган), có nguồn gốc từ tiếng Turk để chỉ "lâu đài"[12].

Tamga

Các bộ lạc và thị tộc Scythia đã để lại các dấu hiệu sắc tộc quan trọng là các tamga (các nhãn mác nhận dạng sự chiếm hữu của mỗi cá nhân) của họ, một dấu hiệu cần thiết cho các cộng đồng xã hội chăn thả chia sẻ chung một khu vực chăn thả gia súc ăn cỏ. Các tamga cho phép tái tạo lại các chuyển động và các kết nối gia đình tại các nơi mà không còn hồ sơ ghi chép nào khác còn tồn tại.

Bên cạnh tính chất nhận dạng, các tamga còn đánh dấu sự tham gia của các thành viên trong gia đình/thị tộc vào các hoạt động tập thể (các hiệp ước, các nghi lễ tôn giáo, hoạt động kết thân, các chức trách công cộng), và phục vụ như là các biểu tượng của quyền lực trong việc chế tạo ra các đồng tiền. Các hình thái của tamga không thay đổi trong khoảng 2.000 năm trong phạm vi các nhóm sắc tộc có quan hệ họ hàng gần, nhưng sau sự suy tàn của một số thị tộc nổi tiếng thì thị tộc khác có thể sẽ chấp nhận tamga của thị tộc kia.

Việc sử dụng rộng rãi các tamga có nguồn gốc từ miền tây TurkestanMông Cổ không muộn hơn đầu thế kỷ 6 TCN. Phân tích các tamga của các thị tộc hùng mạnh nhất và của các vị vua của vương quốc Bosporus Cimmeria đã cho phép các học giả xác định chính xác phả hệ học của họ và các quan hệ của họ với các lãnh thổ mà từ đó tổ tiên của họ đã di cư tới châu Âu: Chorasm (Hoa Lạt Tử Mô), Kang-Kü, Bactria, Sogdiana.[13].

Văn hóa Pazyryk

Người cưỡi ngựa, đồ tạo tác bằng phớt của văn hóa Pazyryk, khoảng 300 TCN.
Bài chi tiết: Văn hóa Pazyryk

Một số trong số các nơi chôn cất của người Scythia trong giai đoạn đầu thời đại đồ đồng đã được các nhà khảo cổ lập hồ sơ, như các kurganPazyryk (huyện Ulagan của Cộng hòa Altay, miền nam Novosibirsk trong khu vực dãy núi Altay thuộc miền nam Siberi). Các nhà khảo cổ đã ngoại suy ra nền văn hóa Pazyryk từ các di chỉ này: 5 gò mộ lớn và vài gò mộ nhỏ trong giai đoạn từ năm 1925 tới năm 1949, một được nhà khảo cổ Nga Sergei Rudenko mở năm 1947. Các gò mộ che giấu các phòng bằng các khúc gỗ thông rụng lá được che phủ phía trên với các ụ đá hình tháp lớn tạo ra từ đá cuội và đá tảng.

Nền văn hóa Pazyryk thịnh vượng trong khoảng từ thế kỷ 7 TCN tới thế kỷ 3 TCN trong khu vực gắn liền với người Sacae.

Thông thường các ngôi mộ Pazyryk chỉ chứa các đồ dùng thông thường, nhưng trong một, trong số các kho báu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy tấm thảm Pazyryk nổi tiếng có niên đại khoảng năm 400 TCN, tấm thảm mặt tuyết bằng lông cừu cổ nhất đã biết còn sót lại. Một phát hiện đặc sắc khác, cỗ xe tang cao 3 mét, 4 bánh làm từ gỗ bạch dương, được bảo tồn cực tốt từ thế kỷ 5 TCN.

Mặc dù một số học giả còn tìm kiếm mối liên hệ giữa các bộ lạc du mục Pazyryk với các nhóm sắc tộc bản địa Altay, nhưng Rudenko đã tổng quát hóa khung cảnh văn hóa này trong phát biểu sau:

Tất cả những gì chúng ta đã biết cho tới nay về nền văn hóa của cư dân vùng Thượng Altay, những người đã để lại phía sau họ các ụ đá hình tháp lớn, cho phép chúng ta nhắc tới họ vào thời kỳ Scythia, và cụ thể thì nhóm Pazyryk vào thế kỷ 5 TCN. Điều này được hỗ trợ bởi xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ.

Các khai quật Bilsk

Các khai quật gần đây (xem: Gelonus) tại làng Bilsk gần thành phố Poltava (tỉnh Poltava, Ukraina) đã tiết lộ một "đô thị lớn", với diện tích lớn nhất cho bất kỳ đô thị nào trên thế giới vào thời kỳ đó. Nó đã được nhận dạng một cách không chắc chắn (bởi một đội khảo cổ do Boris Andriievich Shramko chỉ huy) như là di chỉ của Gelonus, dường như là kinh đô của Scythia. Các thành lũy bảo vệ thành phố và diện tích lớn tới 40 kilômét vuông vượt qua ngay cả kích thước kỳ dị mà Herodotus đã thông báo. Vị trí ở rìa phía bắc của vùng thảo nguyên Ukraina cho phép có thể kiểm soát về mặt chiến lược hành trình thương mại bắc-nam. Đánh giá theo các đồ vật tìm thấy có niên đại trong khoảng thế kỷ 5 TCN tới thế kỷ 4 TCN thì các nhà xưởng thủ công và đồ sứ Hy Lạp là phổ biến.

Kho báu Tillia tepe

"Các vị vua và các con rồng", Tillia tepe.
Bài chi tiết: Tillia tepe

Một di chỉ phát hiện năm 1968 tại Tillia tepe (nghĩa đen "Đồi vàng") ở miền bắc Afghanistan (trước đây là Bactria) gần Shebergan chứa các ngôi mộ của 5 người đàn bà và 1 người đàn ông với rất nhiều đồ châu báu, có niên đại khoảng thế kỷ 1 TCN, và nói chung được cho là thuộc về các bộ lạc Scythia. Nhìn chung các ngôi mộ cất giấu vài nghìn miếng đồ kim hoàn tinh xảo, thường được làm từ sự kết hợp của vàng, ngọc lamđá da trời (lapis-lazuli).

Vương miện, Tillia tepe.

Tuy nhiên, một mức độ cao của hổ lốn văn hóa tràn ngập trong các vật tìm thấy. Ảnh hưởng nghệ thuật và văn hóa Hellen (Hy Lạp) xuất hiện trong nhiều dạng và các mô tả người (từ các đứa trẻ có cánh tới các vòng với hình khắc họa Athena và tên của vị nữ thần này được khắc bằng tiếng Hy Lạp), có thể quy cho sự tồn tại của đế chế Seleucusvương quốc Hy Lạp-Bactria trong cùng một khu vực cho tới tận khoảng năm 140 TCN, và sự tồn tại của vương quốc Ấn-Hy Lạp tại tây bắc tiểu lục địa Ấn Độ cho tới tận đầu Công nguyên. Các đồ tạo tác này cũng xuất hiện trong hỗn hợp với các đồ vật đến từ các nền văn minh có quan hệ xa hơn, chẳng hạn giữa một số ít đồ tạo tác Trung Quốc (đặc biệt là các gương đồng Trung Quốc) cũng như một ít đồ tạo tác Ấn Độ (các tấm bảng trang trí bằng ngà). Điều này chứng thực sự giàu có các ảnh hưởng văn hóa trong khu vực của nhà nước Bactria vào thời gian này.